Nghiên cứu sinh
Luận án của nghiên cứu sinh Phạm Thị Thu Hồng
THÔNG TIN TÓM TẮT
VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN TIẾN SĨ
1. Tên đề tài luận án: Ảnh hưởng của chính sách thuế đến phát triển bền vững doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
2. Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
3. Mã số: 9340201
4. Họ tên NCS: Phạm Thị Thu Hồng Mã NCS: 21BD0201001
5. Họ tên người hướng dẫn NCS: PGS, TS. Phạm Tuấn Anh
6. Những đóng góp mới của luận án:
Đóng góp mới về lý luận:
Thứ nhất, tác giả đã phát hiện ra phương pháp CSSK có thể được sử dụng để đánh giá ảnh hưởng của chính sách thuế đến PTBVDNNVV.
Thứ hai, ESG được coi là lăng kính đo lường đại diện cho PTBVDNNVV, tác giả đã sử dụng bộ tiêu chí ESG mà Bộ KH&ĐT & USAID đã xây dựng để tự chấm điểm ESG cho mẫu DNNVV và tập trung vào một số ngành, lĩnh vực có mức độ gây ô nhiễm môi trường cao.
Thứ ba, tác giả đã ứng dụng phương pháp hồi quy đa biến dữ liệu bảng nhằm phát hiện các ảnh hưởng của một số yếu tố, trong đó có chính sách thuế đến PTBVDNNVV.
Đóng góp mới về thực tiễn:
Thứ nhất, tác giả phát hiện rằng DNNVV mặc dù có sự cố gắng để theo đuổi PTBV nhưng sự hài hòa giữa ba trụ cột KT-MT-XH chưa thực sự đạt được. Điểm số trung bình ESG tổng thể trên cả ba khía cạnh MT-XH-QT của các DNNVV trong giai đoạn 2012-2024 mặc dù có xu hướng tăng nhưng mức độ tăng rất ít và chưa đạt được số điểm tối thiểu trung bình là 50. Tuy nhiên, từ năm 2017 đến 2024 vẫn có một số DNNVV hoạt động trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm khoáng chất phi kim; sản xuất các sản phẩm may mặc; khai khoáng (trừ dầu mỏ và khí đốt); sản xuất hóa chất, dược phẩm; nước, chất thải và các hệ thống khác; sản xuất giấy; sản xuất sản phẩm kim loại tổng hợp... đã đạt được điểm số ESG tổng thể trung bình trên 50 điểm. Kết quả này sẽ đóng góp thêm vào các tài liệu hỗ trợ phân tích thực trạng PTBVDNNVV tại Việt Nam.
Thứ hai, dựa trên việc áp dụng phương pháp CSSK, một số phát hiện mới cho thấy hầu như các sự kiện giảm thuế (ví dụ sự kiện 3-7 về thuế TNDN) đều có tác động tích cực đến chỉ số ESG, đặc biệt là sau các kỳ sự kiện, doanh nghiệp có xu hướng tăng cường đầu tư vào các hoạt động ESG khi có thêm nguồn lực từ việc giảm thuế. Tuy nhiên, có những thời điểm, việc giảm thuế lại chưa thực sự hiệu quả, chỉ mang tính chất hỗ trợ tạm thời, do bản thân doanh nghiệp không có sức chống chịu trước những yếu tố đột biến như trong thời kỳ đại dịch Covid-19. Ngược lại, các sự kiện tăng thuế có tác động tiêu cực, do doanh nghiệp phải phân bổ nhiều nguồn lực hơn cho các nghĩa vụ thuế, làm giảm khả năng đầu tư vào các yếu tố ESG. Ví dụ ESG tổng thể và ESG thành phần có xu hướng giảm khi có sự kiện về thuế tài nguyên, tuy nhiên tác động đến ESG tổng thể có dấu hiệu trễ.
Thứ ba, dựa trên việc áp dụng phương pháp hồi quy đa biến dữ liệu bảng, tác giả phát hiện thấy gánh nặng thuế TNDN có ảnh hưởng tiêu cực đến chỉ số ESG của DNNVV, trong khi thuế GTGT gần như không có ảnh hưởng đến PTBVDNNVV do bản thân loại thuế này có tính trung lập cao nên không ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Các yếu tố tài chính của doanh nghiệp như ROS thể hiện vai trò tích cực đối với chỉ số ESG của DNNVV, đăc biệt là chỉ số ESG môi trường và quản trị. Các loại chi phí của doanh nghiệp như chi phí NVL ảnh hưởng đến chỉ số ESG do vấn đề liên quan đến môi trường, đến các bên liên quan như nhà cung cấp; chi phí năng lượng có tác động tích cực đến môi trường khi các doanh nghiệp thực hiện các sáng kiến tiết kiệm điện, chuyển dần sang năng lượng sạch... Đòn bẩy tài chính thể hiện ảnh hưởng tiêu cực ở tất cả khía cạnh của ESG, điều này chứng minh rằng nguồn lực của DNNVV thực sự rất hạn chế, doanh nghiệp nào sử dụng tỷ lệ nợ cao thì mức độ bền vững của doanh nghiệp đó chưa cao. Số lượng NLĐ tại doanh nghiệp thể hiện vấn đề xã hội, có ảnh hưởng tích cực đến chỉ số ESG...
Kết quả nghiên cứu thực nghiệm sẽ đóng góp thêm vào các tài liệu hỗ trợ cho lý thuyết về PTBVDNNVV và về ảnh hưởng của chính sách thuế đến PTBVDNNVV.
Đóng góp mới về chính sách:
Luận án đã thể hiện được quan điểm riêng về việc hoàn thiện chính sách thuế với PTBVDNNVV tại Việt Nam và đã cung cấp khuyến nghị một số giải pháp đối với cơ quan quản lý đểhoàn thiện bộ tiêu chí ESG cho phù hợp với loại hình DNNVV tại Việt Nam trên phương diện bổ sung thêm một số tiêu chí; hoàn thiện chính sách thuế cho PTBVDNNVV theo cả 02 cơ chế là áp đặt và khuyến khích, tuy nhiên đối với cơ chế khuyến khích, Luận án cũng đã đề xuất hình thức ưu đãi thuế nên được tập trung áp dụng nhiều hơn để tạo điều kiện cho DNNVV hoạt động bền vững (chẳng hạn như áp dụng có thời hạn mức thuế suất thuế TNDN thấp hơn mức thuế suất phổ thông cho các DNNVV; tăng cường áp dụng ưu đãi về mặt chi phí cho các khoản chi liên quan đến thực hiện các hoạt động bền vững của doanh nghiệp thay vì ưu đãi trên thu nhập...). Ngoài ra, Luận án cũng đề xuất một số các giải pháp khác nhằm giúp DNNVV cải thiện điểm số ESG.